Vấn đề tiêu chuẩn tiến phong giáo sư ở nước ta lại gây ra bàn cãi. Tiếp theo bài phỏng vấn hôm qua, bài hôm nay bàn về các tiêu chí đề bạt chức danh GS mà Thủ tướng mới kí quyết định hôm 31/12/08.
Nhận xét đầu tiên của tôi là các tiêu chí này không giống như những tiêu chí mà các đại học nước ngoài sử dụng. Khi tôi viết “nước ngoài” ở đây, tôi không chỉ nói ở các nước Âu Mĩ Úc, mà còn các nước trong vùng Đông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Nam Dương, và Phi Luật Tân.
Tôi đồng ý với với nhiều ý kiến của Gs Hoàng Tụy, nhưng có một số ý kiến của giáo sư tôi thấy cần xem xét lại. Chẳng hạn như ý “Công nhận GS, PGS nghĩa là giao nhiệm vụ cho người đủ tiêu chuẩn khoa học để tham gia công tác đào tạo ở trường ĐH. Khi đó, anh sẽ có học trò, chứ không phải đòi hỏi ngược lại: có học trò rồi, anh mới đủ điều kiện làm GS.” Kinh nghiệm của tôi ở ngoài này thì ngược lại: ứng viên giáo sư phải chứng minh rằng mình đã có thành tích nghiên cứu khoa học và đã tạo được uy tín tương đương với chức danh giáo sư rồi mời xin đề bạt (chứ không phải cho chức danh rồi mới chứng minh khả năng của mình).
I. Ngạch đề bạt:
Các đại học đề bạt giáo sư (tôi gọi chung cho giáo sư, phó giáo sư, senior lecturer, lecturer) theo hai ngạch: nghiên cứu khoa học (research) và giảng dạy (teaching). Ứng viên phải chọn ngạch mà mình muốn đề bạt. Chẳng hạn như tôi ít làm giảng dạy nên tôi chỉ có thể chọn ngạch nghiên cứu; nếu tôi dại dột chọn ngạch giảng dạy thì tôi chắc chắn không đủ tiêu chuẩn để được đề bạt chức danh giáo sư.
II. Tiêu chí:
Mỗi ngạch sẽ được xét dựa vào bốn tiêu chí: đó là thành tựu nghiên cứu khoa học (research output), lãnh đạo (leadership), giảng dạy (teaching), và phục vụ (services). Nói cách khác, nếu tôi chọn ngạch nghiên cứu thì người ta vẫn đánh giá tôi qua tất cả 4 tiêu chí này, nhưng cố nhiên, người ta sẽ đặt nặng tiêu chí nghiên cứu hơn là những tiêu chí khác. Tương tự, nếu tôi chọn ngạch giảng dạy, người ta vẫn phải xem xét đến thành tựu nghiên cứu của tôi chứ không phải chỉ một tiêu chí. Điều này có nghĩa là một giáo sư phải đáp ứng tất cả 4 tiêu chí, nhưng tiêu chuẩn thì khác nhau cho từng tiêu chí mà ứng viên chọn ngạch được đề bạt.
1. NCKH: bao gồm số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã công bố trên các tập san quốc tế. Ngoài ra, các bằng sáng chế (patents) cũng được xếp trong tiêu chí này. Hội đồng khoa bảng dựa vào những chỉ số như hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF) của tập san và chỉ số H của cá nhân ứng viên. Không có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF quá tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung, hội đồng chú ý đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên ngành. Chỉ số H rất quan trọng, vì đây là chỉ số quyết định một phần sự thành bại của ứng viên. Các trường đại học danh tiếng và lớn bên Mĩ thường đòi hỏi ứng viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt chức danh professor.
2. Giảng dạy và đào tạo (teaching and mentorship) là những chỉ tiêu về số course mà ứng viên thiết kế và giảng dạy. Ứng viên phải trình bày rất chi tiết về số sinh viên, đánh giá của sinh viên ra sao, và thành tựu trong giảng dạy. Tôi từng thấy có ứng viên đem cả băng video và DVD để chứng minh khả năng giảng dạy của mình cho hội đồng khoa bảng xem xét.
Đối với các ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì giảng dạy chính là số sinh viên cấp thạc sĩ và tiến sĩ mà ứng viên đã hướng dẫn thành công. Những sinh viên này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp. Ngoài ra, ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đến “đầu quân” làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc này hiện nay như thế nào. Trong phần này, ứng viên cũng có thể viết về những khóa học ngắn hạn hay những seminar mang tính giáo dục cho đồng nghiệp mà ứng viên đã thực hiện.
3. Lãnh đạo không phải là lãnh đạo hành chính, mà là đi đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu. Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời viết xã luận (editorial), bình luận (commentary), bài tổng quan (invited review), được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn tầm quốc tế (còn gọi là invited lecture, keynote lecture, v.v…) mà ban tổ chức tài trợ hoàn toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị, đóng vai trò chủ tọa hội nghị, v.v… Do đó, ứng viên phải thuyết phục rằng mình đã được mời giảng dạy ở đâu, có bao nhiêu người tham gia, hội nghị loại gì, v.v… và v.v… chứ không phải chỉ đơn thuần liệt kê một danh sách dài.
4. Phục vụ ở đây là phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng. Hội đồng thường xem xét đến những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản biện, bình duyệt (referee hay reviewer), hay cao hơn là được mời làm thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn là đóng vai trò tổng biên tập và phó biên tập của các tập san khoa học quốc tế. Phục vụ trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng. Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạc của đồng nghiệp nước ngoài. Đó là những “chỉ tiêu” được xem là đóng góp, phục vụ cho chuyên ngành.
Hội đồng còn xem xét đến những phục vụ cho cộng đồng qua những bài viết trên báo chí đại chúng, những bài viết trên các tạp chí khoa học phổ thông, những ý kiến liên quan đến xã hội hay cố vấn cho Nhà nước.
III. Tiêu chuẩn:
Mỗi tiêu chuẩn được đánh giá bằng 4 tiêu chuẩn như sau:
Trung bình (sustained): đóng góp ở mức độ kì vọng của chức vụ hiện tại, tức là nằm trong hạng top 50%.
Trên trung bình (superior): đóng góp ở mức trên những gì kì vọng trong chức danh hiện hành, tính theo hạng thì mức độ này là top 30%.
Xuất sắc (outstanding): đóng góp nằm vào top 10% của chức vụ hiện hành.
Nổi trội (outstanding plus contribution): đóng góp đem lại tên tuổi cho trường đại học, những đóng góp thuộc vào hàng “top 5%” của chuyên ngành.
Do đó, nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là nghiên cứu thì hồi đồng khoa bảng đòi hỏi ứng viên phải thuộc hạng xuất sắc (outstanding) và nổi trội trong nghiên cứu, và trên trung bình ở các tiêu chí lãnh đạo, giảng dạy và phục vụ. Nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì phải đáp ứng tiêu chuẩn giảng dạy xuất sắc trở lên, nhưng các tiêu chí nghiên cứu, lãnh đạo và phục vụ thì trung bình hay trên trung bình cũng được.
Những tiêu chí và tiêu chuẩn này ở các nước rất giống nhau. Có thể xem qua qui trình đề bạt tại UNSW ở đây. Còn về tiêu chuẩn ở các trường y bên Mĩ có thể xem qua các tài liệu sau đây: Duke University, Harvard University, Yale University, UCLA.
IV. kinh nghiệm:
Đối chiếu những tiêu chí và tiêu chuẩn này với tiêu chuẩn của Việt Nam thì tôi thấy Bộ GDĐT cũng có cố gắng làm theo nước ngoài, nhưng … chẳng giống ai. Những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố không phân biệt được ngạch đề bạt (giảng dạy và nghiên cứu). Ngoài ra, những tiêu chuẩn rất phức tạp, máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm” rất phi khoa học tính. Tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao tiếp”.
Nếu những gì tôi trình bày trên đây cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm hay bài học gì thì tôi nghĩ đến những kinh nghiệm và bài học sau đây:
1. Thứ nhất là nên phân chia ngạch đề bạt. Ở nước ta có nhiều người mà nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học. Do đó, cần phải có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy, nghiên cứu, và thậm chí phục vụ. Thật vậy, có người tuy không giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lí, thì chúng ta cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ. Ở trường UNSW (Úc) có người từng là chính trị gia, nhưng vì có nhiều đóng góp cho ngành y tế cộng đồng nên cũng được tiến phong giáo sư y khoa.
2. Thứ hai là không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong đếm. Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng, họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.
3. Thứ ba là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Không như ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, ở nhiều trường bên Úc và Mĩ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lí đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên. Ngoài ra, để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt.
4. Thứ tư là tính minh bạch. Tất cả các chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên internet. Ngoài ra, danh sách những người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công bố cho ứng viên biết trước. Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học, v.v… Tính minh bạch còn thể hiện qua qui định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp. Ngoài ra, phải có cơ chế để ứng viên “khiếu nại” nếu đơn xin đề bạt không thành công.
Khi người làm được thì không được làm (31/10/2010) Tia cực tím (ultraviolet) (31/10/2010) Blog giải cứu con tin (30/10/2010) Sinh viên đánh giá giảng viên (30/10/2010) Người Mỹ dạy bài học ”Cô bé Lọ Lem” như thế đấy! (30/10/2010) Hữu khuynh-tả khuynh là gì? (30/10/2010) Teaching by being (dạy bằng cách làm gương) (30/10/2010) Thầy trường Hồ Thị Kỷ (Cà mau) đánh 20 nữ sinh lớp 9 (29/10/2010) Phó GS. TS...để làm gì? (29/10/2010) Luôn luôn lắng nghe, lâu lâu mới hiểu (29/10/2010)