PEYRONIE’S DISEASE

Bệnh Peyronie được bác sĩ phẫu thuật người Pháp Francois de la Peyronie mô tả vào năm 1743, về sau người ta lấy tên ông để đặt tên cho bệnh.
1. Peyronie là gì?
Bệnh Peyronie (PD) là tình trạng viêm mạn tính của bao trắng thể hang dương vật, gây tình trạng rối loạn mô liên kết dẫn đến phát triển mảng xơ cứng ở dương vật, chiếm tỷ lệ 9% ở nam giới. Bao trắng là bao xơ bao bọc thể hang, dầy lên gây đau, cong bất thường dương vật, rối loạn cương, ngắn dương vật.
Bệnh sử của bệnh PD rất thay đổi. tiến trình bệnh lý có thể xảy ra vài năm. Nếu mảng xơ bị can-xi hoá, thì sự gập góc của dương vật sẽ rõ ràng hơn. Trong thời kỳ ban đầu mô tả là bệnh có thể tự khỏi. Tuy nhiên điều này không chính xác. Trong năm 1990, Gelbard và cs thấy những mảng này hết hoàn toàn không cần điều trị có trong 13% bệnh nhân, trong khi 40% mô tả là bệnh ngày càng tiến triển và 47% thấy là không có thay đổi gì. Vì vậy nên can thiệp để phục hồi chứ năng tình dục. Devine và cs đề nghị điều trị nội khoa sớm thì khả năng thành công cao.
2. Dịch tễ
Các thống kê trước đây cho rằng có khoảng 1% dân số mắc bệnh này. Nhưng theo nghiên cứu gần đây của Đức thì có tới 3% nam giới mắc bệnh. Trong nghiên cứu này tỉ lệ tăng theo tuổi ngày càng tăng, bệnh gặp ở: 1,5% nam giới ở độ tuổi 30, 6,5% nam giới trong độ tuổi 70. Một nghiên cứu của Mỹ, tỉ lệ mảng xơ được phát hiện ở một bác sĩ có kinh nghiệm là 9%. Theo trang www.peyroniesassociation.org thì tỉ lệ mắc là 9%. Một điều tra quan trọng đã khám nghiệm tử thi và chỉ ra rằng có sự thay đổi ở bao trắng dương vật giống như những gì được nhìn thấy trong PD ở 20% nam giới.
Một số giả thuyết đã giải thích sự sai lệch ở tỷ lệ này là do nhiều người mắc PD không đến khám ở cơ sở y tế. Những bệnh nhân không đau hoặc không quan hệ tình dục ít khi được chẩn đoán vì họ không có nhu cầu thảo luận với bác sĩ về sự biến dạng của dương vật. Thêm vào đó, vài bệnh nhân có triệu chứng rất nhẹ, không ảnh hưởng đến chức năng của dương vật. Thông thường chỉ những bệnh nhân bị đau, hoặc gặp trở ngại trong quan hệ tình dục do sự biến dạng của dương vật mới phải đến tư vấn bác sĩ. Tệ hơn là một số bệnh nhân lại cảm thấy xấu hổ nên không đến khám.
Mặc dù nó có thể ảnh hưởng đến những người đàn ông của bất kỳ chủng tộc và tuổi tác (20 – 70 tuổi), nó thường được nhìn thấy ở:
• Nam giới da trắng trên 40 tuổi
• Đặc biệt là những người nhóm máu A + ,
• Một số trường hợp do di truyền
Nhưng đã được nhìn thấy bệnh ở nam giới ở độ tuổi 18
Khoảng 30% đàn ông bệnh Peyronie phát triển xơ hóa trong các mô đàn hồi khác của cơ thể, chẳng hạn như trên tay hoặc chân , ví dụ như co cứng bàn tay.
Yếu tố nguy cơ
Đái tháo đường, tăng huyết áp, và hút thuốc lá dường như phổ biến ở bệnh nhân PD
Các thủ thuật xâm lấn, như cắt tiền liệt tuyến cũng có thể làm tăng nguy cơ PD
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa các yếu tố nguy cơ này và sự phát triển bệnh vẫn chưa được chứng minh một cách thuyết phục.
Người có tiền sử gia đình mắc PD hoặc bệnh Dupuytren’s contracture ( biến dạng bàn tay, 1 hay nhiều ngón bị cong vào phía lòng bàn tay, không duỗi ra được do các màng mô liên kết dày lên và ngắn lại) có thể có nhiều khả năng mắc PD
3. Nguyên nhân:
Nguyên nhân cơ bản của bệnh Peyronie chưa được hiểu rõ nhưng người ta cho rằng đó là rối loạn chữa lành vết thương (wound-healing disorder) làm cho các mô trong dương vật không thể tự lành và được kích hoạt bởi chấn thương. Vết thương có thể to hoặc nhỏ như khi xảy ra trong lúc quan hệ tình dục. Khi dương vật lành, mô sẹo hình thành dư thừa quanh các lớp mô liên kết bao quanh các tạng cương.
4. Triệu chứng:

Đối với vài bệnh nhân, PD có thể xuất hiện nhanh chóng, gần như suốt đêm, nhưng với số còn lại thì lại từ từ
Mảng xơ ( Plaque): là 1 u hay cục dày bên dưới da thân dương vật. Mảng bám là sự tích tụ mô liên kết dư thừa và sự phát triển của mô sẹo trong dương vật. mảng xơ này khác với mảng xơ được hình thành trong lòng mạch. Chúng có thể hình thành ở bất cứ chỗ nào dọc theo thân dương vật nhưng thường thì ở phía trên. Nhìu người có thể cảm nhận được mảng xơ dưới da, cảm nhận được sự phát triển của mảng xơ theo thời gian, ban đầu nó mềm sau đó càng ngày càng cứng hơn. Bởi vì mảng xơ được hình thành bằng các mô sẹo, nên nó không thể dãn nở ra giống như mô cơ bình thường trong dương vật và nó ngăn chặn việc cương lên của dương vật.
Dương vật bị dị dạng (deformity) hay là rút ngắn lại (shortening) khi cương: sự thay đổi có thể bao gồm: uốn cong (curvature), lõm vào (indention) (H1), chít hẹp dạng đồng hồ cát (hourglass narrowing) (H2), hoặc rút ngắn lại. Hầu hết đàn ông khi mắc PD thì có biến dạng chủ yếu là cong dương vật. Hình dạng và kích thước của dương vật của người mắc PD phụ thuộc vào vị trí và kích thước của mảng xơ. Dương vật sẽ uốn cong về phía mảng xơ (H3). Dương vật cong lên phổ biến hơn là dương vật cong xuống và cong qua phải trái. Nói chung, mảng xơ càng lớn thì độ cong của dương vật càng lớn. Mảng bám nhỏ thường sẽ làm dương vật lõm vào hơn là cong. Nếu mảng bảm xuất hiện trên các mặt đối diện của dương vật, sẽ xảy ra kiểu biến dạng đồng hồ cát. Dương vật thụt vào có thể kèm theo cong hoặc không, nếu mảng xơ ở xa, sự thụt vào này có thể thấy được lúc dương vật cương hoặc không. Sự cong của dương vật và những biến dang khác có thể làm hoạt động tình dục của bệnh nhân trở nên khó khăn. Độ cong càng lớn, thì khả năng tình dục càng giảm. dạng thụt vào và đồng hồ cát dù ít ảnh hưởng đến quá trình giao hợp, nhưng có thể gây oằn, gãy trong lúc giao hợp.


Đau dương vật: đau có thể xảy ra lúc cương hoặc không cương. Hơn 50% bệnh nhân PD sẽ bị đau dương vật. Đối với nhiều người đây là triệu chứng đầu tiên. Mặc dù cơn đau xảy ra lúc dương vật cương, nhưng nó cũng có thể xảy ra khi dương vật ở trạng thái bình thường do viêm ở vị trí mảng xơ hình thành. Cơn đau khi dương vật cương có thể gây ra bởi sự căng kéo tác động lên mảng xơ khi các mô cơ lân cận căng giãn rộng ra. Tuy nhiên, cơn đau chỉ tồn tại trong vòng 12 đến 18 tháng khi bắt đầu bệnh.(các giai đoạn bệnh)
Rối loạn cương dương: 2/3 số bệnh nhân PD bị rối loạn cương dương do các nguyên nhân:
• Dương vật bị cong.Độ cong của dương vật sẽ ngăn cản quá trình giao hợp hoặc có thể gây đau cho đối tác. Dương vật vừa cong vừa hẹp có thể dẫn đến sự mất ổn định của dương vật, thậm chí khi dương vật cương tối đa, và làm cho dương vật bị oằn.
• Đau. Vài người sẽ tránh cương dương vật bởi vì đau.
• Lo lắng. Bệnh nhân lo lắng về hình dạng của dương vật và về chức năng của dương vật. Điều này sẽ làm cho họ không muốn cương dương vật hoặc duy trì sự cương dương.
• Sự thay đổi vật lý, các mảng xơ sẽ lan ra, làm phá hủy các mô cơ lân cận, và làm hạn chế khả năng cương. Dương vật sẽ không cương hoặc cương nhưng không cứng do các mảng xơ.
5. Giai đoạn bệnh: Về mặt thực hành có thể chia ra làm PD cấp hay mãn tính.
• Giai đoạn cấp tính có thể kéo dài 18-24 tháng, lúc này các thay đổi trong dương vật bắt đầu xảy ra. Mảng xơ hình thành, gây thay đổi hình dạng của dương vật khi cương. Khi mảng phát triển, dương vật bắt đầu cong và ngày càng tiến triển xấu đi. Dương vật khi cương sẽ thấy đau. Tệ hơn là đau ngay cả khi không cương bởi vì tình trạng viêm xảy ra ở chỗ các mảng xơ.
• Giai đoạn mãn tính: trong giai đoạn này các dấu hiệu của bệnh( mảng xơ, dương vật cong ) trở nên ổn định và không có khả năng trầm trọng hơn nhưng cũng không cải thiện. Cơn đau thường giảm, nhưng rối loạn cương dương có thể trầm trọng hơn. Có khả năng trở lại giai đoạn cấp tính nếu có chấn thương khác xảy ra.
6. Chẩn đoán:
Chẩn đoán bệnh dựa vào lâm sàng là đủ, trong đó quan trọng là hỏi kỹ quá trình diễn biến và khám lâm sàng.
a. Dấu hiệu và triệu chứng cơ năng
Đau khi cương. Đau tăng lên khi quan hệ tình dục.
Dương vật vẹo hoặc cong khi cương, khó đưa vào trong âm đạo.
Giảm hoặc mất khả năng cương cứng, đánh giá mức độ rối loạn cương dương.
Khai thác thời gian xuất hiện triệu chứng bệnh, sự tiến triển của biến dạng dương vật.
b. Khám thực thể khi dương vật cương
Xuất hiện một dải xơ ở một hoặc hai bên vật hang dương vật.
Xác định vị trí, hình dạng, kích thước dải xơ và đánh giá phần dương vật còn lại.
Đường kính của dương vật giảm đi.
Dương vật biến dạng (lồi lõm và ngắn).
c. Triệu chứng cận lâm sàng
Chụp ảnh dương vật khi cương cứng để đánh giá mức độ cong dương vật.
Chụp X quang: hiệu quả để xác định sự can xi hóa của mảng xơ (được coi như độ “chin” của mảng xơ).
Siêu âm Doppler có sự hỗ trợ của thuốc gây cương dương vật.
d. Chẩn đoán phân biệt: cong dương vật bẩm sinh. (congenital penile)
Peyronie’s Disease Cong dương vật bẩm sinh
Dương vật cong hoặc biến dạng có khi có có khi không
Có liên quan đến sự tích tụ mô sẹo trong dương vật
Triệu chứng có thể thay đổi theo thời gian Dương vật cong suốt cuộc đời người đàn ông
Do bất đối xứng bẩm sinh thể hang dương vật.
Triệu chứng không tiến triển
7. Điều trị:
Nếu không điều trị , khoảng 12-13 % bệnh nhân sẽ tự cải thiện theo thời gian, 40-50% sẽ càng tồi tệ và phần còn lại sẽ tương đối ổn định. Tỉ lệ này được dựa trên một cuộc khảo sát của 97 người đàn ông do đó chỉ dựa trên những ấn tượng chủ quan của bệnh nhân .
a. Thuốc và chất bổ sung
Rất nhiều điều trị bằng thuốc uống đang được nghiên cứu, nhưng kết quả thì rất khác nhau. Một vài tác giả xem phương pháp không phẫu thuật là còn đang bàn cãi.
-Vitamin E có thể ngăn chặn sự phát triển xấu hơn của bệnh
-Một sự kết hợp Vitamin E và cochicine cũng chứng minh tính hiệu quả trong sự làm chậm đi sự tiến triển của bệnh.
- Một vài thuốc mới tấn công vào cơ chế gây viêm, như là para-aminobenzoate (Potaba), pentoxifylline (hoạt động thông qua ức chế TGFβ1 ), và Coenzyme Q10 . những chất mới hơn bao gồm acetyl L-carnitine, propionyl L-carnitine, L-arginine, and sildenafil (hoạt động thông qua ức chế men phosphodiesterase-5 )
-Hiệu quả của Interferon-anpha-2b trong giai đoạn sớm của bệnh cũng được báo cáo gần đây trong những nghiên cứu, tuy nhiên ít hiệu quả khi mảng xơ hóa vôi.
- Superoxide dismutase (SOD) cũng được báo cáo trong điều trị.
- Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về các nguyên bào sợi cho thấy sự vận chuyển collagen ngoài tế bào phụ thuộc và sự xuất hiện của calci. Verapamil là chất chẹn calci, làm giảm nồng độ calci trong tế bào và làm tăng hoạt động collagenase hóa. Đồng thời, verapamil ức chế các nguyên bào sợi của mảng xơ Peyronie phân chia tế bào (trong phòng thí nghiệm). Tiêm verapamil vào mảng xơ có hiệu quả ở một số bệnh nhân.
b. Phẫu thuật :
Chỉ định:
Bệnh ở mức độ nặng, bệnh nhân đau, dương vật cong quá mức cản trở việc quan hệ tình dục.
Theo dõi 1-2 năm mà không có tiến triển tốt lên.
Điều trị nội khoa thất bại.
Nguyên tắc phẫu thuật:
Nguyên tắc phẫu thuật là lấy bỏ cục xơ và làm thẳng dương vật.
Chỉ được tiến hành bởi các phẫu thuật viên có kinh nghiệm.
Mục tiêu của phẫu thuật là làm thẳng dương vật và đảm bảo chức năng cương dương vật để người bệnh có quan hệ tình dục được.
Các phương pháp phẫu thuật:có 3 phương pháp phẫu thuật để điều trị bệnh: Khâu gấp nếp vật hang, rạch/cắt mảng xơ và vá che phủ, đặt vật hang nhân tạo.
Khâu nếp gấp kéo theo làm ngắn vật hang bên đối diện vật hang bị mảng xơ, do vậy làm ngắn dương vật. Ưu điểm của phương pháp là ít đòi hỏi kỹ thuật, thao tác nhanh và kèm theo đó là ít nguy cơ bị rối loạn cương dương sau phẫu thuật.
Rạch/cắt mảng xơ và vá che phủ chỗ khuyết đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và có thể có nguy cơ bị rối loạn tắc mạch do mảnh vá. Chỉ định: mảng xơ lớn làm cong dương vật nặng, mảng xơ hình vòng hoặc dương vật ngắn không thích hợp cho phương pháp khâu nếp gấp vật hang (vì làm ngắn thêm dương vật nữa). Miếng vá có thể dùng là vạt da, mành tĩnh mạch hiển,…
Đặt vật hang nhân tạo được chỉ định cho những trường hợp rối loạn cương dương nặng. Ở bệnh nhân cong dương vật nặng do mảng xơ lớn, có thể kết hợp với cắt bỏ mảng xơ và vá chỗ khuyết.
Tại Mỹ: "Nesbit hoạt động", (được đặt tên sau khi Reed M. Nesbit (1898-1979), một nhà tiết niệu Mỹ tại Đại học Michigan) được xem là một phương sách cuối cùng và chỉ nên được thực hiện bởi bác sĩ có tay nghề cao, có kiến thức về các kỹ thuật phẫu thuật khắc phục chuyên ngành. Một giả dương vật có thể thích hợp trong trường hợp nặng.
Tại châu Âu: Một ca phẫu thuật châu Âu được gọi là kỹ thuật Leriche, trong đó kim 18 được sử dụng để xé các mảng bám, đã cho thấy hiệu quả trong việc giảm độ cong và trở về chức năng tình dục.
c. Điều trị hỗ trợ:
Các bác sĩ đang bắt đầu nhìn vào các hình thức ít xâm nhập điều trị thay thế cho phẫu thuật vì nhiều bệnh nhân không hài lòng với kết quả của sự can thiệp chủ yếu là do rút ngắn dương vật đó xảy ra sau khi phẫu thuật .Mặc dù không có cách chữa bệnh Peyronie,một số nghiên cứu lâm sàng như đã nêu ra phương pháp độn dương vật như một điều trị có thể để sửa độ cong , hoặc ít nhất cản trở đường cong trở nên xấu hơn . Theo bác sĩ Gontero , nhà nghiên cứu hàng đầu của nghiên cứu nói trên được công bố trên Tạp chí Y học tình dục trong năm 2009 : " nghiên cứu kết luận rằng các thiết bị mở rộng dương vật chỉ cung cấp những cải tiến nhỏ trong dương vật cong nhưng bệnh nhân nói chung hài lòng có thể từ tăng chiều dài dương vật “
Dùng dụng cụ hỗ trợ cho bệnh nhân có kèm theo rối loạn cương dương.
Dùng máy tán sỏi ngoài cơ thể để đánh tan mảng xơ.
Xoa bóp và luyện tập dương vật để tăng sức khỏe và sửa chữa tổ chức xơ của bệnh:
Gia tăng tuần hoàn máu và bạch mạch tới vùng chậu dưới. Tăng dòng máu tới dương vật làm tăng cung cấp oxy cho xung quanh vùng xơ sẹo, kéo theo hoạt động oxy hóa monoamine (cần oxy), vì vậy làm hạn chế quá trình xơ hóa tổ chức. Tăng lưu thông bạch mạch từ dương vật giúp các sản phẩm độc từ tổ chức tổn thương và tổ chức xơ sẹo dễ thoát đi, các thương tổn dễ liền hơn.
Tăng cung cấp năng lượng tới vùng chậu dưới.
d. Tư vấn:
Bệnh Peyronie có thể là một căn bệnh về thể chất và tâm lý nặng nề. Trong khi hầu hết đàn ông sẽ tiếp tục để có thể có quan hệ tình dục, họ có thể gặp một số mức độ biến dạng và rối loạn chức năng cương dương trong sự trỗi dậy của quá trình bệnh.Những bệnh nhân có thể mắc trầm cảm hoặc từ chối từ các đối tác tình dục của họ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://www.peyroniesassociation.org/
2. http://health-fts.blogspot.com/2012/...s-disease.html

[/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE]