Y Cần Thơ- Powered by TheKyOnline.vn
Phẫu thuật nội soi trong tiết niệu

Written by Trần Văn Nguyên

TIẾP CẬN QUA PHÚC MẠC, CHUẨN, HỖ TRỢ BẰNG TAY (Transperitoneal, Standard, and Hand-Assisted Approach)

Đặt nền móng cho phẫu thuật nội soi hiện đại Bozzini, vào năm 1805.

Song song với việc phát triển nguồn sáng cải tiến optic, những phát minh về thay đổi trong kỹ thuật bơm hơi vào trocar đã xuất hiện. Sau khi Kelling báo cáo việc sử dụng không khí qua bao cotton trùng để bơm vào khoang phúc mạc bằng kim, Zollikofer người Swithzerland đưa ra việc sử dụng CO2 vào năm 1924.

Cho mãi đến cuối thập niên 1980, phẫu thuật nội soi mới được ứng dụng một cách hạn chế trong niệu khoa. Thực vậy, bằng những nổ lực riêng, Cortesi cộng sự, 1976, báo cáo việc sử dụng phẫu thuật nội soi trên bệnh nhi trong việc thám sát tìm tinh hoàn ẩn. Smith vào 1985 đã sử dụng phẫu thuật nội soi để hỗ trợ lấy sỏi bồn thận qua da. một sự thay đổi ngoạn mục sau 24 tháng kể từ năm 1989 đến 1990. Đầu tiên, năm 1991, Schuessller cộng sự báo cáo kinh nghiệm bước đầu trong nạo hạch chậu bịt qua nội soi để phân giai đoạn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt sau khi đã thực hiện ca đầu tiên vào 1989. N ăm 1990, Sanchez-de-Badajoz cộng sự báo cáo cắt tĩnh mạch tinh trong điều trị dãn tĩnh mạch tinh qua nội soi. N ăm 1991 Clayman cộng sự thực hiện cắt thận qua nội soi đầu tiên.

Một kỷ nguyên mới của phẫu thuật trong tiết niệu đã bắt đầu. Hàng loạt thủ thuật được thực hiện nội soi: nạo hạch, cắt tĩnh mạch tinh, cắt thận qua ngã sau phúc mạc trong phúc mạc trong điều trị bướu lành tính ác tínhthận, cắt thận niệu quản, cắt thận bán phần, cắt tuyến thượng thận, bóc vỏ nang thận, dẫn lưu nang bạch huyết (lymphocele), cắt bàng quang trong bênh lành tính, cắt túi thừa bàng quang, nạo hạch qua ngã sau phúc mạc cắt tinh hoàn. Vào năm 1995, Kavoussi cộng sự thực hiện cắt thậnngười cho thận qua nội soi.

Phẫu thuật nội soi hỗ trợ bằng tay bắt đầu phát triển khi phẫu thuật nội soi cắt lách hỗ trợ bằng tay. N hững phẫu thuật nội soi hỗ trợ bằng tay sau đó được ứng dụng bởi các nhà phẫu thuật niệu khoa. Trường hợp phẫu thuật hỗ trợ bằng tay sử dụng PneumoSleeve đầu tiên trường hợp cắt thận vào năm 1997 do Nakada cộng sự.

Tiếp cận sau phúc mạc ngoài phúc mạc

         Wittmoser lần đầu tiên phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thần kinh giao cảm vùng thắt lưng năm 1973.

         N ăm 1979, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc trong niệu khoa được thực hiện bởi Wickham để lấy sỏi niệu quản.

         N ăm 1991, Figenshau cộng sự cắt thận qua ngã sau phúc mạc.

         Gaur tả việc tạo khoang sau phúc mạc bằng bong năm 1992.

         Bartel tả việc tạo khoang ngoài phúc mạc đầu tiên năm 1969.

         Vào 1992, Ferzli cộng sự nạo hạch chậu qua ngã ngoài phúc mạc.

         N gày nay phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt toàn phần qua ngã ngoài phúc mạc

 Sinh học bơm hơibụng

CO2 chất được sử dụng nhiều nhất trong PT nội soi. N hờ những tính chất của như: không màu, không gây cháy, rẻ tiền nên được dùng nhiều nhất. Sự căng chướng bụng kéo dài sau PT không xảy ra CO2 nhanh chóng được hấp thu (Wolf and Stoller, 1994). tan nhanh trong nước dễ dàng khuếch tán trong . Do khả năng hệ số khuếch tán tương đối cao hơn oxygen các khí hấp khác, dễ dàng hấp thu trongbụngbụng, nhờ vào gradient khuếch tán cao gây ra bởi sự khác nhau về nồng độ CO2 giữa khoang bụng các thành phần khác như máu. Tuy nhiên do hấp thu nhanh ít gây thuyên tắc khí CO2 cũng gây ra 1 số vấn đề như: tăng CO2 máu, hết hợp với loạn nhịp tim. Đặc biệtnhững BN COPD trừ với tình trạng hấp thu CO2 bằng cách tăng thông khí, điều này thể dẫn đến tăng CO2 ở mức độ nghiêm trọng. CO2 cũng kích thích hệ TK giao cảm (tăng nhịp tim, tăng co bóp tim, kháng lực mạch máu. Cuối cùng CO2 được dự trữ trong nhiều tạng: xương, , … sau 1 phẫu thuật nội soi kéo dài, phải mất vài giờ để BN thải hết CO2 mất thời gian lâu hơnnhững BN tổn thương phổi (Lewis et al, 1972; Puri and Singh, 1992; Tolksdorf et al, 1992 ; Wolf and Stoller, 1994 ). vậy, tất BN đặc biệt những BN bị bệnh phổi, cần phải theo dõi sát các triệu chứng tăng CO2 huyết trong vài giờ sau PTN S kéo dài.

Sinh bơm hơi sau phúc mạc

1.      Trên hệ hấp: Bơm hơi sau phúc mạc thể làm giảm hoạt động của hoành làm giảm biên độ hấp 47%.

2.      Trên hệ tuần hoàn: tốt nhất bơm hơi sau phúc mạc với áp lực 12 -14mmHg.

·        Hiếm khi tinh trạng nhịp chậm do phản xạ Vagal.

·        phù phổi cấpnhững bệnh nhân suy thất trái nặng.

3.      Trên hệ tiết niệu sinh dục: thể tăng creatinin sau mổ.

 Giải thích bệnh nhân

Cần phải giải thích cho bệnh nhân hiểu biết được những biến chứng cũng như sự thất bại thể phải chuyển sang hỗ trợ bằng tay hoặc mổ mở

Đăng bởi: ycantho - Ngày đăng: 08/06/2011